Tụng Kinh Vu Lan Báo Hiếu Cha Mẹ có chữ chạy To dễ đọc – Thầy Thích Pháp Hòa

Nghe tụng Kinh Vu Lan Báo Hiếu Cha Mẹ có chữ chạy To – dễ đọc

CÚNG HƯƠNG TÁN PHẬT
(Vị chủ lễ quỳ cầm 3 cây hương ngang trán, niệm lớn bài cúng hương)

Nguyện đem lòng thành kính
Gửi theo đám mây hương
Phưởng phất khắp mười phương
Cúng dường ngôi Tam Bảo
Nguyện trọn đời giữ đạo
Theo tự tánh làm lành
Cùng pháp giới chúng sanh
Cầu Phật từ gia hộ
Tâm Bồ Đề kiên cố
Chí tu học vững bền
Xa biển khổ nguồn mê
Chóng quay về bờ giác

(Đọc nhỏ tiếp bài Kỳ nguyện)
KỲ NGUYỆN

Nay chính là ngày chư Tăng kiết hạ, đem đức lành phổ hóa chúng sanh. Chúng con một dạ chí thành, cúng dường Tam Bảo, cùng trì tụng kinh chú xưng niệm Hồng Danh, nguyện đem công đức lành này hồi hướng Phật Pháp trường tồn, chúng sanh an lạc. Chư Tăng, Ni, Phật Tử thân tâm an lạc, tinh tấn tu học, phúc tuệ trang nghiêm, giới thể châu viên, tâm bồ đề bất thối hiện tiền. Cha, mẹ, thân bằng quyến thuộc thân tâm an lạc, khổ bệnh tiêu trừ, phát bồ đề tâm tu các pháp lành, chuyển mê khai ngộ. Cửu huyền thất tổ, cha mẹ nhiều đời, chư hương linh quá vãng, sớm rõ đường mê, sinh về tịnh độ. Ngưỡng mong oai đức từ bi vô cùng xót thương gia hộ.
Nam Mô hương cúng dường Bồ Tát (1 lạy)
Nam Mô Chứng Minh Sư Bồ Tát (1 lạy)
Nam Mô Thập Phương Thường Trú Tam Bảo Tát Đại Chứng Minh. (1 lạy)

(đứng dậy cắm hương, chủ lễ xướng tiếp bài kệ tán Phật và quán tuởng)
KỆ TÁN PHẬT

Đấng pháp vương vô thượng
Ba cõi chẳng ai bằng
Thầy dạy khắp trời,người
Cha lành chung bốn loại
Quy y tròn một niệm
Dứt sạch nghiệp ba kỳ
Xưng dương cùng tán than
Ức kiếp không cùng tận. (1 lạy)

QUÁN  TƯỞNG

Phật chúng sanh tánh thường rỗng lặng
Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn
Lưới đế châu ví đạo tràng
Mười phương Phật bảo hào quang sáng ngời
Trước bảo tọa thân chúng con ảnh hiện
Cúi đầu xin thệ nguyện quy y (1 lạy)

ĐẢNH  LỄ

Chí tâm đảnh lễ: Nam mô tận hư không biến pháp giới quá, hiện, vị lai Thập phương chư Phật,Tôn pháp, Hiền Thánh Tăng, thường trụ Tam Bảo. (1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Ta Bà Giáo Chủ điều ngự Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Đương lai hạ sanh Di Lặc Tôn Phật, Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ tát, Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ tát, Hộ Pháp Chư Tôn Bồ Tát, Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ tát. (1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Tây phương Cực lạc thế giới đại từ đại bi A Di Đà Phật, đại bi Quán Thế Âm Bồ tát, Đại Lực Đại Thế Chí Bồ Tát, Đại nguyện Địa Tạng Vương Bồ tát, Đại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ Tát, Kỳ Viên Hội Thượng Vô Lượng Thánh Hiền. (1 lạy)

BÀI TÁN LƯ HƯƠNG

Lư hương vừa ngún chiên đàn,
Khói hương nghi ngút muôn ngàn cõi xa,
Lòng con kính ngưỡng thiết tha,
Ngưỡng mong chư Phật thương mà chứng minh
Nam mô Hương Vân Cái Bồ Tát(3 lần)

CHÚ ĐẠI BI

Nam-mô Đại-bi Hội-Thượng Phật Bồ-tát (3 lần).
Thiên thủ thiên nhãn, vô ngại Đại-bi tâm đà-la-ni.
Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da.
Nam mô a rị da bà lô yết đế, thước bát ra da, bồ đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da. Án tát bàn ra phạt duệ, số đát na đát tỏa.
Nam mô tất kiết lật đỏa, y mông a rị da, bà lô kiết đế, thất Phật ra lăng đà bà.
Nam mô na ra cẩn trì hê rị, ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha đậu du bằng, a thệ dựng, tát bà tát đa, na ma bà già, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha. Án, a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị, ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, rị đà dựng, cu lô cu lô, kiết mông độ lô độ lô, phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê di hê, thất na thất na, a ra sâm Phật ra xá lợi, phạt sa phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô, ma ra hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ đề dạ, bồ đề dạ, bồ đà dạ, bồ đà dạ, di đế rị dạ na ra cẩn trì địa rị sắc ni na, ba dạ ma na, ta bà ha. Tất đà dạ, ta bà ha. Ma ha tất đà dạ, ta bà ha. Tất đà du nghệ, thất bàn ra dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì, ta bà ha. Ma ra na ra, ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê da, ta bà ha. Ta bà ma ha, a tất đà dạ, ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ, ta bà ha. Ma bà lị thắng yết ra dạ, ta bà ha.
Nam mô hắc ra đát na, đa ra dạ da.
Nam mô a rị da, bà lô yết đế, thước bàng ra dạ, ta bà ha.
Án, tất điện đô, mạn đa ra, bạt đà dạ ta bà ha.

KHAI KINH

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (3 lần)

Pháp Phật cao siêu rất nhiệm màu,
Trăm ngàn muôn kiếp dễ hay đâu,
Con nay nghe thấy chuyên trì tụng,
Nguyện tỏ Như Lai nghĩa nhiệm màu.

Nam Mô Đại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ Tát (3 lần)

PHẬT NÓI KINH VU LAN BỒN TA TỪNG NGHE LỜI TẠC NHƯ VẦY:

Một thuở nọ Thế Tôn an trụ,
Xá vệ thành Kỳ Thụ viên trung
Mục Liên mới đặng lục thông,
Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân,
Công dưỡng dục thân ân dốc trả
Nghĩa sanh thành đạo cả mong đền
Làm con hiếu hạnh vi tiên,
Bèn dùng tuệ nhãn dưới trên kiếm tầm.
Thấy vong mẫu sanh làm ngạ quỉ
Không uống ăn tiều tụy hình hài,
Mục Liên thấy vậy bi ai,
Biết mẹ đói khát ai hoài tình thâm
Lo phẩm vật đem dâng từ mẫu,
Đặng đỡ lòng cực khổ bấy lâu,
Thấy con, mẹ rất lo âu.
Tay tả che đậy, hữu hầu bốc ăn.
Lòng bỏn xẻn tiền căn chưa dứt,
Sợ chúng ma cướp giựt của bà.
Cơm đưa chưa đến miệng đà,
Hóa thành than lửa nuốt mà đặng đâu,
Thấy như vậy âu sầu thê thảm,
Mục Kiền Liên bị cảm xót thương,
Mau mau về đến giảng đường,
Bạch cùng Sư phụ tầm phương giải nạn.
Phật mới bảo rõ ràng căn cội,
Rằng mẹ ông gốc tội rất sâu.
Dầu ông thần lực nhiệm màu,
Một mình không thể ai cầu đặng đâu
Lòng hiếu thảo của ông dầu lớn,
Tiếng vang dồn thấu đến Cửu Thiền
Cùng là các bậc Thần kỳ.
Tà ma ngoại đạo, bốn vì Thiên Vương
Cộng ba cõi sáu phương tụ tập.
Cũng không phương cứu tế mẹ ngươi,
Muốn cho cứu đặng mạng người.
Phải nhờ thần lực của mười phương Tăng
Pháp cứu tế ta toan giảng nói,
Cho mọi người thoát khỏi ách nàn
Bèn kêu Mục Thị đến gần,
Truyền chi diệu pháp ân cần thiết thi,
Rằm tháng bảy là ngày Tự tứ.
Mười phương Tăng đều dự lễ nầy
Phải toan sắm sửa chớ chầy,
Thức ăn trăm món, trái cây năm màu
Lại phải sắm gường, nằm nệm lót
Cùng thau, bồn, đèn đưốc, nhang dầu
Món ăn tinh, sạch báu mầu
Đựng trong bình bát Vọng cầu kính dâng
Chư Đại đức mười phương thọ thực
Trong bảy đời sẽ đặng siêu thăng
Lại thêm cha mẹ hiện tiền
Đặng nhờ phước lực tiêu khiên ách nàn
Vì ngày ấy Thánh Tăng đều đủ
Dù ở đâu cũng tụ hội về.
Như người Thiền định sơn khê
Tránh điều phiền não chăm về thiền na
Hoặc người đặng bốn tòa đạo quả
Công tu hành nguyện thỏa vô sanh
Hoặc người thọ hạ kinh hành
Chẳng ham quyền quí ẩn danh lâm tòng
Hoặc người đặng lục thông tấn phát
Và những hàng Duyên giác,Thanh Văn
Hoặc chư Bồ tát mười phương
Hiện hình làm sãi ở gần chúng sanh
Đều trì giới rất thanh, rất tịnh,
Đạo đức dày chánh định chân tâm
Tất cả các bực Thánh, phàm
Đồng lòng thọ lãnh bát cơm lục hòa
Người nào có sắm ra vật thực
Đặng cúng dường Tự tứ Tăng thời
Hiện tiền phụ mẫu của người
Bà con quyến thuộc thảy đều nhờ ơn
Tam đồ khổ chắc rằng ra khỏi
Cảnh thanh nhàn hưởng thọ tự nhiên
Như còn cha mẹ hiện tiền
Nhờ đó cũng đặng bách niên thọ trường
Như cha mẹ bảy đời quá vãng
Sẽ hóa sanh về cõi thiên cung
Người thời tuấn tú hình dung
Hào quang chiếu sáng khắp cùng châu thân
Phật dạy bảo mười phưong tăng chúng
Phải tuân theo thể thức sau nầy:
Trước khi thọ thực đàn chay
Phải cầu chú nguyện cho người tín gia
Cầu thất thế mẹ cha thí chủ
Định tâm thần quán đủ đừng quên
Cho xong định ý hành thiền
Mời dùng phẩm vật đàn tiền hiến dâng
Khi thọ dụng, nên an vật thực
Trước Phật đài hoặc tự tháp trung
Chư tăng chú nguyện viên dung
Sau rồi tự tiện thọ dùng bữa trưa
Pháp cứu tế Phật vừa nói dứt
Mục Liên cùng Bồ tát chư Tăng
Đồng nhau tỏ dạ vui mừng
Mục Liên cũng hết khóc thương rầu buồn
Mục Liên mẫu cũng trong ngày ấy
Kiếp khổ về ngạ quỷ được tan
Mục Liên bạch với Phật rằng:
Mẹ con nhờ sức Thánh Tăng khỏi nàn
Lại cùng nhờ oai thần Tam Bảo
Bằng chẳng thì nạn khổ khó ra
Như sau đệ tử xuất gia
Vu Lan bồn pháp dùng mà độ sanh
Độ cha mẹ còn đương tại thế
Hoặc bảy đời có thể đặng không?
Phật rằng: lời hỏi rất thông
Ta vừa muốn nói con vùng hỏi theo.
Thiện nam tử, Tỳ kheo nam nữ
Cùng Quốc vương,Thái tử Đại thần
Tam công, tể tướng, bá quan
Cùng hàng lê thứ vạn dân cỗi trần
Như chí muốn đền ơn cha mẹ
Hiện tại cùng thất thế tình thâm
Đến Rằm tháng bảy mỗi năm
Sau khi kiết hạ chư Tăng tựu về
Chính ngày ấy Phật đà hoan kỷ
Phải sắm sanh bá vị cơm canh
Đựng trong bình bát tinh anh
Chờ giờ Tự tứ chúng tăng cúng dường
Đặng cầu nguyện song đường trường thọ
Chẳng ốm đau cũng chẳng khổ chi
Cùng cầu thất thế đồng thì
Lìa nơi ngạ quỉ sanh về nhơn thiên
Đặng hưởng phước nhân duyên vui đẹp
Lại xa lìa nạn khổ cực thân
Môn sanh Phật tử ân cần
Hạnh tu Hiếu thuận phải cần phải chuyên
Thường cầu nguyện thung huyên an hảo
Cùng bảy đời phụ mẫu siêu sanh
Ngày rằm tháng Bảy mỗi năm
Vì lòng hiếu thảo ơn thâm phải đền
Lễ cứu tế chí thành sắp đặt
Ngỏ cúng dường chư Phật chư Tăng
Ấy là báo đáp thù ân
Sanh thành dưỡng dục song thân buổi đầu
Đệ tử Phật lo âu gìn giữ
Mới phải là Thích tử Thiền môn
Vừa nghe dứt pháp Lan Bồn
Môn sanh tứ chúng thảy đồng hỷ hoan
Mục Liên với bốn ban Phật tử
Nguyện một lòng tín sự phụng hành.
Trước là trả nghĩa sanh thành
Sau là cứu vớt chúng sanh muôn loài
Nam mô đại hiếu Mục Kiền Liên Bồ Tát(3 lần)

PHẬT THUYẾT BÁO HIẾU PHỤ MẪU ÂN KINH

Một thuở nọ Thế Tôn an trụ
Xá-vệ thành Kỳ thụ viên trung,
Chư Tăng câu hội rất đông
Tính ra tới số hai muôn tám ngàn,
Lại cũng có các hàng Bồ-tát
Hội tại đây đủ mặt thường thường,
Bấy giờ Phật lại lên đường
Cùng hàng đại chúng Nam phương tiến hành.
Đáo bán lộ đành rành mắt thấy
Núi xương khô bỏ đấy lâu đời,
Thế Tôn bèn vội đến nơi
Lạy liền ba lạy rồi rơi giọt hồng.
Đức A-Nan tủi lòng ái ngại
Chẳng hiểu sao Phật lạy đống xương?
Vội vàng xin Phật dạy tường
Thầy là Từ phụ ba phương bốn loài
Ai ai cũng kính thầy dường ấy
Cớ sao thầy lại lạy xương khô?
Phật rằng: “Trong các môn đồ
Ngươi là đệ tử đứng đầu dày công,
Bởi chưa biết đục trong cho rõ
Nên vì ngươi ta tỏ đuôi đầu:
Đống xương dồn dập bấy lâu
Cho nên trong đó biết bao cốt hài,
Chắc cũng có ông bà, cha mẹ
Hoặc thân ta, hoặc kẻ ta sanh
Luân hồi sanh tử, tử sanh
Lục thân đời trước thi hài còn đây.
Ta lễ bái kính người tiền bối
Và ngậm ngùi vì nhớ kiếp xưa.
Đống xương hỗn tạp chẳng vừa
Không phân trai gái, bỏ bừa khó coi
Ngươi chịu khó xét soi cho lỹ
Phân làm hai, bên nữ bên nam
Để cho phân biệt cốt phàm
Không còn lẫn lộn nữ nam chất chồng.”
Đức A-Nan trong lòng tha thiết
Biết làm sao phân biệt khỏi sai,
Ngài bèn xin Phật chỉ bày
Vì khó chọn lựa gái trai lúc này.
Còn sanh tiền dễ bề sắp đặt
Cách đứng đi, ăn mặc phân minh
Chớ khi rã xác, tiêu hình
Xương ai như nấy, khó nhìn khó phân.
Phật mới bảo: “A-Nan nên biết
Xương nữ nam phân biệt rõ ràng:
Đàn ông xương trắng nặng oằn
Đàn bà xương nhẹ đen thâm dễ nhìn.
Ngươi có biết cớ chi đen nhẹ?
Bởi đàn bà sanh đẻ mà ra,
Sanh con ba đấu huyết ra
Tám hộc bốn đấu sữa hòa nuôi con
Vì cớ ấy hao mòn thân thể
Xương đàn bà đen nhẹ hơn trai.”
A-Nan nghe vậy bi ai
Xót thương cha mẹ công dày dưỡng sanh
Bèn cầu Phật thi ân dạy bảo
Phương pháp nào báo hiếu song thân?
Thế Tôn mới bảo lời rằng:
“Vì ngươi, ta sẽ phân trần khá nghe
Thân đàn bà nhiều bề cực nhọc
Sanh đặng con thập nguyệt cưu mang,
Tháng đầu thai đậu tợ sương
Mai chiều gìn giữ sợ tan bất thường,
Tháng thứ nhì dường như sữa đặc,
Tháng thứ ba như cục huyết ngưng,
Bốn tháng đã tượng ra hình,
Năm tháng ngũ thể hiện sinh rõ ràng,
Tháng thứ sáu lục căn đều đủ,
Bảy tháng thì đủ bộ cốt xương
Lại thêm đủ lỗ chân lông
Cộng chung đến số tám muôn bốn ngàn,
Tháng thứ tám hoàn toàn tạng phủ,
Chín tháng thì đầy đủ vóc hình,
Mười tháng thì đến kỳ sinh
Nếu con hiếu thuận xuôi mình ra luôn
Bằng ngỗ nghịch làm buồn thân mẫu
Nó vẫy vùng, đạp quấu lung tung
Làm cho cha mẹ hãi hùng
Sự đau sự khổ không cùng tỏ phân…
Khi sản xuất muôn phần an lạc
Cũng ví như được bạc được vàng.”
Thế Tôn lại bảo A-nan:
“Ơn cha nghĩa mẹ nhiều phần phải tin.
Điều thứ nhất, giữ gìn thai giáo
Mười tháng thường chu đáo mọi bề,
Thứ hai sanh đẻ gớm ghê
Chịu đau chịu khổ mỏi mê trăm phần,
Điều thứ ba, thâm ân nuôi dưỡng
Cực đến đâu bền vững chẳng lay,
Thứ tư ăn đắng nuốt cay
Để dành bùi ngọt đủ đầy cho con,
Điều thứ năm, lại còn khi ngủ
Ướt mẹ nằm, khô ráo phần con,
Thứ sáu sú nước nhai cơm
Miễn con no ấm chẳng nhờm chẳng ghê,
Điều thứ bảy, không chê ô uế
Giặt đồ dơ của trẻ không phiền,
Thứ tám chẳng nỡ chia riêng
Nếu con đi vắng cha phiền mẹ lo,
Điều thứ chín, miễn con sung sướng
Dầu phải mang nghiệp chướng cũng cam
Tính sao có lợi thì làm
Chẳng màng tội lỗi bị giam bị cầm,
Điều thứ mười chẳng ham trau chuốt
Dành cho con các cuộc thanh nhàn
Thương con như ngọc như vàng
Ơn cha nghĩa mẹ sánh bằng Thái Sơn.”
Phật lại bảo: “A-Nan nên biết,
Trong chúng sanh tuy thiệt phẩm người
Mười phần mê muội cả mười
Không tường ơn trọng đức dày song thân,
Chẳng kính mến, quên ơn trái đức
Không xót thương dưỡng dục cù lao,
Ấy là bất hiếu mặc giao
Vì những người ấy đời nào nên thân.
Mẹ sanh con cưu mang mười tháng
Cực khổ dường gánh nặng trên vai
Uống ăn chẳng đặng vì thai
Cho nên thân thể hình hài kém suy,
Khi sanh sản hiểm nguy chi xiết
Sanh đặng rồi tinh huyết dầm dề
Ví như thọc huyết trâu dê
Nhất sanh thập tử nhiều bề gian nan,
Con còn nhỏ phải lo chăm sóc
Ăn đắng cay, bùi ngọt phần con,
Phải tắm phải giặt rửa trôn
Biết rằng dơ dáy mẹ không ngại gì,
Nằm phía ướt, con nằm phía ráo
Sợ cho con ướt áo ướt chăn,
Hoặc khi ghẻ chóc khắp thân
Ắt con phải chịu trăm phần thảm thương,
Trọn ba năm bú nương sữa mẹ
Thân gầy mòn nào nệ với con,
Khi con vừa được lớn khôn
Cha mẹ dạy bảo cho con vỡ lòng
Cho đi học mở thông trí huệ
Dựng vợ chồng có thế làm ăn
Ước mong con được nên thân
Dầu cho cha mẹ cơ bần quản chi,
Con đau ốm tức thì lo chạy
Dẫu tốn hao đến mấy cũng đành
Khi con căn bệnh đặng lành
Thì cha mẹ mới an thần định tâm…
Công dưỡng dục sánh bằng non biển
Cớ sao con chẳng biết ơn này?
Hoặc khi lầm lỗi bị rầy
Chẳng tuân thì chớ, lại bày ngỗ ngang
Hỗn cha mẹ, phùng mang trợn mắt
Khinh trưởng huynh, nộ nạt thê nhi
Bà con chẳng kể ra chi
Không tuân sư phụ, lễ nghi chẳng tường
Lời dạy bảo song đường không kể
Tiếng khuyên răn anh chị chẳng màng
Trái ngang chống báng mọi đàng
Ra vào lui tới mắng càn người trên…
Vì lỗ mãn tánh quen làm bướng
Chẳng kể lời trưởng thượng dạy răn
Lớn lên theo thói hung hăng
Đã không nhẫn nhịn lại càng hành hung,
Bỏ bạn lành theo cùng chúng dữ
Nết tập quen làm sự trái ngang,
Nghe lời dụ dỗ quân hoang
Bỏ cha bỏ mẹ trốn sang quê người,
Trước còn tập theo thời theo thế
Thân lập thân tìm kế sanh nhai
Hoặc đi buôn bán kiếm lời
Hoặc vào quân lính với đời lập công,
Vì ràng buộc đồng công mối nợ
Hoặc trở ngăn vì vợ, vì con
Quên cha, quên mẹ tình thâm
Quên sứ quên sở lâu năm không về…
Ấy là nói những người có chí
Chớ phần nhiều du hý mà thôi,
Sau khi phá hết của rồi
Phải tìm phương kế kiếm đôi đồng xài
Theo trộm cướp hoặc là bài bạc
Phạm tội hình tù rạc phải vương,
Hoặc khi mang bệnh giữa đường
Không người nuôi dưỡng, bỏ thân ngoài đồng
Hay tin dữ, bà con cô bác
Cùng mẹ cha xao xác buồn rầu
Thương con than khóc ưu sầu
Có khi mang bệnh đui mù vấn vương,
Hoặc bệnh nặng vì thương quá lẽ
Phải bỏ mình làm quỷ giữ hồn,
Hoặc nghe con chẳng lo lường
Trà đình tửu điếm phố phường ngao du
Cứ mài miệt với đàng bất chánh
Chẳng mấy khi thức tỉnh mộ khan
Làm cho cha mẹ than van
Sanh con bất hiếu phải mang tiếng đời,
Hoặc cha mẹ đến hồi già yếu
Không ai nuôi  thiếu thốn mọi điều
Ốm đau đói rách kêu rêu
Con không cấp dưỡng bỏ liều chẳng thương…
Phận con gái còn nương cha mẹ
Thì có lòng hiếu đễ thuận hòa
Cần lao phục dịch trong nhà
Dễ sai dễ khiến hơn là nam nhi,
Song đến lúc tùng phu xuất giá
Lo bên chồng, chẳng sá bên mình
Trước còn lai vãng viếng thăm
Lần lần nguội lạnh biệt tăm biệt nhà,
Quên dưỡng dục song thân ân trọng
Không nhớ công mang nặng đẻ đau
Chẳng lo báo bổ cù lao
Làm cho cha mẹ buồn rầu thảm thay,
Nếu cha mẹ la rày quở mắng
Trở sanh lòng hờn giận chẳng kiêng
Chớ chi chồng đánh liên miên
Thì cam lòng chịu chẳng phiền chẳng than…
Tội bất hiếu lưỡng ban nam nữ
Nói không cùng nghiệp dữ phải mang…”
Nghe Phật chỉ rõ mọi đàng
Trong lòng đại chúng lòng càng thảm thay
Gieo xuống đất lấy cây lấy củi
Đập vào mình, vào mũi, vào hông
Làm cho các lỗ chân lông
Thảy đều rướm máu ướt đầm cả thân
Đến hôn mê tâm thần bất định
Một giây lâu mới tỉnh than rằng:
“Bọn ta quả thật tội nhơn
Xưa nay chẳng rõ không hơn người mù!
Nay tỏ ngộ biết bao lầm lạc
Ruột gan dường như nát như tan
Tội tình khó nỗi than van
Làm sao trả đặng muôn ngàn ân sâu?”
Trước Phật tiền, ai cầu trần tố
Xin Thế Tôn mẫn cố bi lân
Làm sao báo đáp thù ân
Tỏ lòng hiếu thuận song thân của mình?
Phật bèn dụng Phạm thinh sáu món
Phân tỏ cùng đại chúng lóng nghe:
“Ân cha nghĩa mẹ nặng nề
Không phương báo đáp cho vừa sức đâu!
Ví có người ân sâu dốc trả
Cõng mẹ cha tất cả hai vai
Giáp vòng hòn núi Tu-Di
Đến trăm ngàn kiếp ân kia chưa vừa!
Ví có người gặp cơn gió rét
Nuôi song thân dâng hết thân này
Xương nghiền thịt nát phân thây
Trải trăm ngàn kiếp ân đây chưa đồng!
Ví có người vì công sanh dưỡng
Tự tay mình khoét thủng song ngươi
Chịu thân mù tối như vầy
Đến trăm ngàn kiếp ân này thấm đâu!
Ví có người cầm dao thiệt bén
Mổ bụng ra rút hết tâm can
Huyết ra khắp đất chẳng than
Đến trăm ngàn kiếp thâm ân đâu bằng!
Ví có người dùng ngàn mũi nhọn
Đâm vào mình bất luận chỗ nào
Tuy là sự khó biết bao
Trải trăm ngàn kiếp không sao đáp đền!
Ví có người vì ân dưỡng dục
Tự treo mình cúng Phật thế đèn
Cứ treo như vậy tròn năm
Trải trăm ngàn kiếp ân thâm chưa đền!
Ví có người xương nghiền ra mỡ
Hoặc dùng dao chặt bửa thân mình
Xương tan thịt nát chẳng phiền
Đến trăm ngàn kiếp ân trên chưa đền!
Ví có người vì công dưỡng dục
Nuốt sắt nóng thấu ruột thấu gan
Làm cho thân thể tiêu tan
Đến trăm ngàn kiếp thâm ân chưa đền!…”
Nghe Phật nói thảy đều kinh khủng
Giọt lệ tràn khó nỗi cầm ngăn,
Đồng thinh bạch Phật lời rằng:
“Làm sao trả đặng ân thâm song đường?”
Phật mới bảo: “Các hàng Phật tử
Phải lóng nghe ta chỉ sau này,
Chúng ngươi muốn đáp ân dày
Phải toan biên chép kinh đây lưu truyền,
Vì cha mẹ trì kiên phúng tụng
Cùng ăn năn những tội lỗi xưa
Cúng dường Tam Bảo sớm trưa
Cùng là tu phước chẳng chừa món chi,
Rằm tháng Bảy đến kỳ Tự tứ
Thập phương Tăng đều dự lễ này
Sắm sanh lễ vật đủ đầy
Chờ giờ câu hội đặt bày cúng dâng
Đặng cầu nguyện song đường trường thọ
Hoặc sanh về Tịnh độ an nhàn,
Ấy là báo đáp thù ân
Sanh thành dưỡng dục song thân của mình!
Mình cần phải cần chuyên trì giới
Pháp Tam quy, Ngũ giới giữ gìn
Những lời ta dạy đinh ninh
Khá nên y thử phụng hành đừng sai.
Được như vậy mới là khỏi tội
Bằng chẳng thì ngục tối phải sa,
Trong năm đại tội kể ra
Bất hiếu thứ nhất thật là trọng thay!
Sau khi chết bị đày vào ngục
Ngũ vô gián cũng gọi A-tỳ
Ngục này trong núi Thiết Vi
Vách phên bằng sắt vây quanh bốn bề,
Trong ngục này hằng ngày lửa cháy
Đốt tội nhơn hết thảy thành than,
Có lò nấu sắt cho tan
Rót vào trong miệng tội nhơn hành hình
Một vá đủ cho người thọ khổ
Lột thịt da đau thấu tâm can,
Lại có chó sắt rắn gang
Phun ra khói lửa đốt đoàn tội nhơn,
Ở trong ngục có giường bằng sắt
Bắt tội nhơn nằm khắp đó xong
Rồi cho một ngọn lửa hồng
Nướng quay chúng nó da phồng thịt đau,
Móc bằng sắt, thương đao gươm giáo
Trên không trung đổ tháo như mưa
Gặp ai chém nấy chẳng chừa
Làm cho thân thể nát nhừ như tương…
Những hình phạt vô phương kể hết
Mỗi ngục đều có cách trị riêng
Như là xe sắt phân thây
Chim ưng mổ bụng, trâu cày lưỡi le
Chớ chi đặng chết liền rất đỡ
Vì nghiệp duyên không nỡ hành thân
Ngày đêm chết sống muôn lần
Đến trăm ngàn kiếp không ngừng một giây!
Sự hình phạt tại A tỳ ngục
Rất nặng nề ngỗ nghịch song thân,
Chúng ngươi đều phải ân cần
Thừa hành các việc phân trần khoản trên.
Nhất này phải kinh này in chép
Truyền bá ra cho khắp Đông, Tây
Như ai chép một quyển này
Ví bằng thấy đặng một vì Thế Tôn,
Nếu in đặng ngàn muôn quyển ấy
Thì cũng bằng thấy Phật vạn thiên,
Do theo nguyện lực tùy duyên
Chư Phật ủng hộ y như sở nguyền
Cha mẹ đặng xa miền khốc lãnh
Lại hóa sanh về cảnh Thiên cung…”
Khi lời Phật giảng vừa xong
Khắp trong tứ chúng một lòng kính vâng,
Lại phát nguyện thà thân này nát
Ra bụi tro muôn kiếp chẳng nài,
Dầu cho kéo lưỡi trâu cày
Đến trăm ngàn kiếp lời thầy không quên,
Ví như bị bá thiên đao kiếm
Khắp thân này đâm chém phân thây
Hoặc như lưới trói thân này
Trải trăm ngàn kiếp lời thầy chẳng sai,
Dẫu thân này bị cưa, bị chặt
Phân chia ra muôn đoạn rã rời
Đến trăm ngàn kiếp như vầy
Chúng con cũng chẳng trái lời thầy khuyên.
Đức A-nan kiền thiền đảnh lễ
Cầu Thế Tôn đặt để hiệu kinh
Ngày sau truyền bá chúng sanh
Dễ bề phúng tụng trì chuyên tu hành.
Phật mới bảo: “A-nan nên biết
Quyển kinh này quả thật cao xa
Đặt tên “BÁO HIẾU MẸ CHA”
Cùng là “ÂN TRỌNG” thật là chơn kinh.
Các ngươi phải giữ gìn châu đáo
Đặng đời sau y giáo phụng hành.”
Sau khi Phật dạy đành rành
Bốn ban Phật tử rất mừng rất vui,
Thảy một lòng vâng theo lời Phật
Và kính thành tin chắc vẹn tuyền,
Đồng nhau tựu lại Phật tiền
Nhất tâm đảnh lễ rồi liền lui ra.
NAM MÔ ĐẠI BÁO PHỤ MẪU TRỌNG ÂN HỘI THƯỢNG PHẬT BỒ TÁT(3 lần)

BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA TÂM KINH

Bồ Tát Quán Tự Tại
Khi quán chiếu thâm sâu
Bát Nhã Ba La Mật
(tức Diệu Pháp Trí Độ)
Bổng soi thấy năm uẩn
Đều không có tự tánh
Thực chứng điều ấy xong
Ngài vượt thoát tất cả
Mọi khổ đau ách nạn.
Nghe đây Xá Lợi Tử:
Sắc chẳng khác gì không
Không chẳng khác gì sắc
Sắc chính thực là không
Không chính thực là sắc
Còn lại bốn uẩn kia
Cũng đều như vậy cả.
Xá Lợi Tử nghe đây:
Thể mọi pháp đều không
Không sanh cũng không diệt
Không nhơ cũng không sạch
Không thêm cũng không bớt
Cho nên trong tánh không
Không có sắc, thọ, tưởng
Cũng không có hành thức
Không có nhãn, nhĩ, tỷ
Không có sắc, thanh, hương
Vị, xúc, pháp (sáu trần)
Không có mười tám giới
Từ nhãn đến ý thức
Không hề có vô minh
Không có hết vô minh
Cho đến không lão tử
Cũng không hết lão tử
Không khổ, tập, diệt, đạo
Không trí cũng không đắc
Vì không có sở đắc
Khi một vị Bồ Tát
Nương Diệu Pháp Trí Độ
(Bát Nhã Ba La Mật)
Thì tâm không chướng ngại
Vì tâm không chướng ngại
Nên không có sợ hãi
Xa lià mọi vọng tưởng
Xa lìa mọi điên đảo
Đạt Niết Bàn tuyệt đối
Chư Bụt trong ba đời
Y Diệu Pháp Trí Độ
Bát Nhã Ba La Mật
Nên đắc vô thượng giác
Vậy nên phải biết rằng
Bát Nhã Ba La Mật
Là linh chú đại thần
Là linh chú đại minh
Là linh chú vô thượng
Là linh chú tuyệt đỉnh
Là chân lý bất vọng
Có năng lực tiêu trừ
Tất cả mọi khổ nạn
Cho nên tôi muốn thuyết
Câu thần chú Trí Độ
Bát Nhã Ba La Mật
Nói xong đức Bồ Tát
Liền đọc thần chú rằng:
Yết đế, Yết đế. Ba la Yết đế. Ba la Tăng yết đế. Bồ đề tát bà ha (3 Lần)
Thiệt, thân, ý (sáu căn)

VÃNG SANH QUYẾT ĐỊNH CHƠN NGÔN

Nam mô a di đa bà dạ, đa tha già đa dạ, đa điệt dạ tha, a di rị đô bà tỳ, a di rị đa tất đam bà tỳ, a di rị đa tỳ ca lan đế, a di rị đa tỳ ca lan đa, già di nị, già già na, chỉ đa ca lệ, ta bà ha.

THẤT PHẬT DIỆT TỘI CHƠN NGÔN

Ly bà ly bà đế, Cầu ha cầu ha đế, Đà la ni đế. Ni ha ra đế, Tỳ lê nễ đế, Ma ha già đế, Chân lăn càn đế, Ta bà ha.

SÁM VU LAN

Đệ tử chúng con
Vâng lời Phật dạy
Ngày rằm tháng Bảy
Gặp hội Vu Lan
Phạm Vũ huy hoàng
Đốt hương đảnh lễ
Mười phương Tam thế
Phật, Pháp, Thánh, Hiền
Noi gương đức Mục Kiền Liên
Nguyện làm con thảo
Lòng càng áo não
Nhớ nghĩa thân sanh
Con đến trưởng thành
Mẹ dày đau khổ
Ba năm nhũ bộ
Chín tháng cưu mang
Không ngớt lo toan
Quên ăn bỏ ngủ
Ấm no đầy đủ
Cậy có công cha
Chẳng quản yếu già
Sanh nhai lam lũ
Quyết cùng hoàn vũ
Phấn đấu nuôi con
Giáo dục vuông tròn,
Đem lòng học đạo.
Đệ tử ơn sâu chưa báo,
Hổ phận kém hèn,
Giờ nầy quì trước đài sen,
Chí thành cung kỉnh.
Đạo tràng thanh tịnh,
Tăng Bảo trang nghiêm,
Hoặc thừa tự tứ,
Hoặc hiện tham thiền,
Đầy đủ thiện duyên,
Dũ lòng lân mẫn.
Hộ niệm cho:
Bảy kiếp cha mẹ chúng con,
Đượm nhuần mưa pháp,
Còn tại thế:
Thân tâm yên ổn,
Phát nguyện tu trì,
Đã qua đời:
Ác đạo xa lìa,
Chóng thành Phật quả.
Ngửa trông các đức Như Lai,
Khắp cõi hư không,
Từ bi gia hộ.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam Mô A Di Đà Phật
Nam Mô Đại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ Tát
Nam Mô Địa Tạng Vương Bồ Tát
Nam Mô Đạo Tràng Hội Thượng Phật Bồ Tát

HỒI HƯỚNG

Phúng Kinh công đức thù thắng hạnh.
Vô biên thắng phước giai hồi hướng
Phổ nguyện pháp giới chư chúng-sanh.
Tốc vãng Vô Lượng Quang Phật sát
Nguyện tiêu tam chướng trừ phiền não.
Nguyện đắc trí huệ chơn minh liễu
Phổ nguyện tội chướng tất tiêu trừ.
Thế thế thường hành Bồ-tát đạo
Nguyện sanh Tây-phương Tịnh độ trung.
Cửu phẩm liên hoa vi phụ mẫu
Hoa khai kiến Phật ngộ Vô sanh.
Bất thối Bồ-tát vi bạn lữ
Nguyện dĩ thử công đức.
Phổ cập ư nhất thiết
Ngã đẳng dữ chúng-sanh.

QUY Y ĐẢNH LỄ
(Đồng đứng dậy chấp tay niệm lớn)

Tự quy y Phật, đương nguyện chúng sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm.
Tự quy y Pháp, đương nguyện chúng sanh, thâm nhập kinh tạng, trí tuệ như hải.
Tự quy y Tăng, đương nguyện chúng sanh, thống lý đại chúng, nhất thiết vô ngại.

THỆ NGUYỆN

Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành
Giai cộng thành Phật đạo.

HỒI HƯỚNG

Nguyện đem công đức này
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử và chúng sanh
Đều trọn thành Phật đạo

LỜI KHẤN NGUYỆN TỔ TIÊN NHÂN DỊP CÚNG TẾ CHƯ VỊ TỔ TIÊN VÀO NGÀY LỄ VU LAN BÁO HIẾU

Kính thưa liệt vị tổ tiên, chúng con cư trú hải ngoại nhân ngày lễ vu lan mùa báo hiếu tập hợp về tư gia kính cẩn đến trước bàn thờ tổ tiên với tất cả lòng dạ chí thành xin trên liệt vị tổ tiên chứng giám.
Chúng con ý thức được cây có cội, nước có nguồn, chúng con biết cha mẹ tổ tiên là cội người của chúng con và chúng con là sự tiếp nối của liệt vị. Chúng con nguyện tiếp nhận và thực hiện những ân đức, tình thường sự mong mỏi của tổ tiên nơi chúng con nhất là chuyển hóa những nổi kết khổ đau do sự nóng giận, sử hiểu lầm, thiếu thông cảm gây ra và làm tổn thương chúng con và thế hệ cháu chắc rất nhiều. Giờ phút này chúng con quỳ dưới chân liệt vị tổ tiên nguyển bỏ hết mọi giận hờn, buồn tủi và hiềm khích, tha thứ cho nhau, chấp nhận nhau, thương yêu nhau, chăm sóc cho nhau và đem lại cho nhau nụ cười và hạnh phúc. Như thế chúng con mới mở ra cho thế hệ cháu chắc một đời sống thoải mái, nhẹ nhàng và ý vị cũng như trao truyền lại cho thế hệ tương lại một ý nghĩa thật sự của mái ấm gia đình, của tình thương ruột thịt. Chúng con biết có làm như thế, chúng con mới thực sự tỏ bày được lòng hiếu thảo và biết ơn của chúng con lên liệt vị tổ tiên. Xin liệt vị tổ tiên chúng minh cho lòng thành của chúng con, chấp nhận hương hoa, trà quả và cơm canh, bánh trái tất cả đều được dâng lên từ lòng hiếu thảo và dạ chí thành. Xin bảo hộ và che chở cho các con, các cháu có đầy đủ sức khỏe, niềm tin và nguồn vui trong cuộc sống kính dâng hương tưởng niệm cửu huyền thất tổ, nội ngoại tiên linh đồng chứng giám.

Kinh vu lan thầy Thích Pháp Hòa trì tụng (Hiện đang là TT Tu Viện Trúc Lâm Edmonton, Canada – Tu Viện Tây Thiên AB, Canada)